NGUỒN GỐC TẾT VIỆT NAM
CHƯNG BÍNH TRUYỆN
蒸餅傳
NGUYÊN
VĂN:
雄王既破殷軍之後,國家無事,欲傳於子,乃會官郎,公子二十二人,謂曰:「我欲傳位,有能如我願,欲珍甘美味,歲終薦於先王,以盡孝道,方可傳位。」
於是諸子各求水陸奇珍之物(一作異味),不可勝數。惟十八子郎僚母氏單寒微,先已病故,左右寡少,難以應辦。晝夜思想,夢寐不安。夜夢神人告曰:「天地之物所貴於人,無過米。所以養人,人能壯也。食不能厭,他物莫能先。當以糯米作餅,或方或圓,以象天地之形,葉包其外,中藏美味,以寓父母生育之重(一作狀)。」郎僚驚覺,喜曰:「神人助我也。」遵而行之。乃以糯米擇其精白,選用圓完無缺折者,淅之潔靜,以青色葉包裹為方形,置珍甘美味在其中,以象(天)[1]地包藏萬物焉。煮而熟之,故曰蒸餅。又以糯米炊熟,搗而爛之,捏作圓形以象天,故曰薄持餅。
至期,王命諸子具陳所獻,歷而觀之,無物不有。惟郎僚獨獻蒸餅、薄持餅。王驚異,問之,郎僚具以夢對。王親嘗之,適口不厭,勝於諸子所陳之物,嘆美良久。乃以郎僚為第一,歲時節候,常以是餅奉事父母,天下效之至今。以名郎僚,故呼謂節料。
初,王傳位於郎僚,兄弟二十一人,分守藩籬,立為部黨,以為藩國。迨後眾將爭長,各立木柵以遮護之,故曰柵、曰村、曰莊、曰坊,自此始.
ÂM
VIỆT CỔ:
Hùng
Vương kí phá Ân quân chi hậu, quốc gia vô sự, dục truyền ư tử, nãi hội quan
lang, công tử nhị thập nhị nhân, vị viết: “Ngã dục truyền vị, hữu năng như ngã
nguyện, dục trân cam mỹ vị, tuế chung tiến ư tiên vương, dĩ tận hiếu đạo,
phương hà lập vị”. Giới thiệu sơ đồ vũ
trụ, với các mốc thời gian, đồng thời chỉ ra rằng người việt xưa kia ăn tết hay tuế chung vào tháng Tý, nói như thế
là khẳng định rằng xưa kia dân ta dùng lịch KT.
Ư thị chư tử các cầu thủy lục kỳ trân
chi vật (nhất tác dị vị), bất khả thắng số. Duy thập bát tử Lang Liêu, mẫu thị
đơn hàn vi, tiên dĩ bịnh cố, tả hữu quả thiếu, nan dĩ ứng biện, trú dạ tư tưởng,
mộng mị bất an. Dạ mộng thần nhân cáo viết: “Thiên địa chi vật sở quý ư nhân,
vô quá mễ. Sở dĩ dưỡng nhân, nhân năng tráng dã. Thực bất năng yểm, tha vật mạc
năng tiên. Đương dĩ nhu mễ tác bỉnh, hoặc phương hoặc viên, dĩ tượng thiên địa
chi hình, diệp bao kỳ ngoại, trung tàng mỹ vị, dĩ ngụ phụ mẫu sanh dục chi trọng
(nhất tác trạng)”
Lang
Liêu kinh giác, hỷ viết: “Thần nhân trợ ngã giả”. Tuân nhi hành chi. Nãi dĩ nhu
mễ trạch kỳ tinh bạch, tuyển dụng viên hoàn vô khuyết chiết giả. Tích chi khiết
tĩnh, dĩ thanh sắc diệp bao lý vi phương hình, trí trân cam mỹ vị tại kỳ trung,
dĩ tượng (thiên) địa bao tàng vạn vật yên. Chữ nhi thục chi, cố viết chưng
bính. Dĩ vi nhu mễ xuy thục, đảo nhi lạn chi, niết tác viên hình dĩ tượng
thiên, cố viết bạc trì bỉnh.
Chí kỳ, vương mệnh chư tử cu trần sở
hiến, lịch nhi quán chi, vô vật bất hữu. Duy lang Liêu độc hiến chưng bính, bạc
trì bính. Vương kinh dị, Lang Liêu cụ dĩ mộng đối. Vương thân thưởng chi, thích
khẩu bất yếm, thắng ư chư tử sở trần chi vật, thán mỹ lương cửu. Nãi dĩ Lang
Liêu vi đệ nhất, tuế thời tiết hầu, thường dĩ thị bỉnh phụng sự phụ mẫu, thiên
hạ hiệu chi chí kim. Dĩ danh Lang Liêu, cố hô vị tiết liệu.
Sơ, Vương truyền vị ư Lang Liêu, huynh đệ nhị thập nhất nhơn, phân thủ
phiên ly, lập vi bộ đảng, dĩ vi phiên quốc. Đãi hậu chúng tướng tranh trưởng,
các vị lập mộc sách dĩ già hộ chi, cố viết sách, viết thôn, viết trang, viết
phường, tự thử thủy.
TẠM
DỊCH:
TRUYỆN BÁNH CHƯNG
Vua Hùng sau khi phá xong giặc Ân rồi, trong nước thái bình, nên lo việc
truyền ngôi cho con, mới hội họp hai mươi hai vị quan lang công tử lại mà bảo rằng:
“Đứa nào làm vừa lòng ta, cuối năm đem trân cam mỹ vị đến dâng cúng Tiên Vương
cho tròn đạo hiếu thì ta sẽ truyền ngôi cho”.
Các công tử đua nhau đi tìm các vị trân kỳ trên đất dưới nước nhiều
không biết bao nhiêu mà kể. Duy có công tử thứ mười tám tên là Lang Liêu, mẹ hàn
vi, bị bệnh qua đời đã lâu, trong nhà lại ít người nên khó bề toan tính, ngày
đêm lo lắng, ăn ngủ không yên. Chợt nằm mơ thấy thần nhân bảo rằng: “Trong trời
đất không có vật gì quý bằng gạo, lấy nó nuôi thân, thân thể khỏe mạnh, ăn mãi
không chán, không có vật gì hơn được. Nên giã gạo nếp làm bánh, hoặc hình vuông,
hoặc hình tròn, tượng trưng cho hình của trời đất, ngoài bao bằng lá, trong chôn
nhân ngon, ngụ ý ơn nặng dưỡng dục của cha mẹ”. Lang Liêu giật mình tỉnh dậy,
vui mừng nghĩ rằng “Thần giúp ta vậy”, rồi theo đó mà làm. Lang Liêu bèn lựa nếp
hạt trắng tinh, không sứt mẻ, đem vo cho sạch, rồi lấy lá xanh gói thành hình
vuông, bỏ nhân ngon vào giữa, đem nấu chín tượng trưng cho Đất, gọi là bánh
chưng. Lại lấy nếp nấu xôi đem quết cho nhuyễn, nhào thành hình tròn để tượng
trưng cho Trời, gọi là bánh Bạc Trì.
Đúng kỳ hẹn, Vua hội họp các con lại trưng bày phẩm vật xem qua không thiếu
thứ gì, duy chỉ có Lang Liêu đem bánh hình tròn, bánh hình vuông đến dâng. Hùng
Vương lấy làm lạ, Lang Liêu trình bày như lời thần nhân đã bảo. Vua nếm thấy
ngon ăn không chán, phẩm vật của các công tử khác không làm sao hơn được. Vua
khen ngợi hồi lâu, rồi cho Lang Liêu được giải nhất. Vua dùng thứ bánh ấy để
cung phụng cha mẹ trong các dịp lễ tết cuối năm, tục này truyền cho đến ngày
nay, lấy tên của Lang Liêu, gọi là Tiết Liệu.
Hùng Vương truyền ngôi cho Lang Liêu; hai mươi mốt anh em kia đều chia nhau
giữ các vùng đất chung quanh, lập nên bộ đảng, làm thành nước nhỏ. Về sau, ai
cũng muốn làm thủ lĩnh, mỗi người dựng rào cây để che kín, phòng vệ. Từ đó mới
có tên Sách, Trại, Trang, Phường.
GIẢI MÃ
I. PHÂN TÍCH TRUYỆN.
1. Tên truyện và nguyên liệu chế
tác câu chuyện.
Ăn uống ngoài chức năng là cung cấp dinh dưỡng cho con người, theo năm
tháng nó cũng thành nghệ thuật, ngày nay gọi là văn hóa ẩm thực, mỗi quốc gia
có những món đặc trưng riêng để tượng trưng cho đất nước mình, tất nhiên nó
không phải là món ngon vật lạ để đáp ứng những ham muốn tầm thường, mà giá trị
của nó chủ yếu là ở tinh thần mà thôi. Bánh chưng, bánh giày của nước Việt là một
sản phẩm như thế, nguồn gốc của loại bánh này có từ xa xưa, theo truyền thuyết
thì từ thời vua Hùng, đây là một sản phẩm vừa có mặt trong truyền thuyết vừa có
mặt trong đời sống của người dân Việt, điều này chứng minh rằng chính dân Việt
là chủ thể của truyền thuyết này chứ chẳng vay mượn của ai cả. Tuy nhiên câu
chuyện lại viết bằng chữ Nho, chữ vuông hay chữ Việt cổ nên nhiều người cất
công sang nước Tàu xa xôi để tìm nguồn gốc của hai loại bánh này, nói như thế
có nghĩa là phần đông người ta không tin truyền thuyết ấy là của người Việt,
đây là ý nghĩ thầm kín nhưng hết sức phổ biến của nhiều người có chữ Hớn, bởi
vì người ta cho rằng khái niệm trời tròn đất vuông là của Trung Hoa, cụ thể là
kinh Dịch của họ, người Việt chỉ mới được họ khai hóa từ ngày Sĩ Nhiếp sang nước
Nam mà thôi, cho nên làm gì biết đến các khái niệm ấy, vì nghĩ như vậy nên chi
khi tìm hiểu cái tên bánh cũng lúng túng. Trước giờ người ta chủ yếu bàn về cái
tên “chưng” ít ai nói đến “giày” hay theo câu chuyện thì có tên “bạc trì”, một
truyền thuyết đã được cụ thể hóa vào đời sống, hay ta có thể nói ngược lại một
loại hình văn hóa của người Việt đã được truyền thuyết hóa thế mà cho đến nay
các nhà nghiên cứu vẫn chưa cung cấp cho dân tộc một giải thích có tính thống
nhất và chấp nhận được về nguồn gốc, tên gọi các loại bánh này. Tuy câu chuyện
đề cập đến hai loại bánh “Chưng và Bạc trì”, dân gian cũng truyền khẩu thành
hai “Chưng và Giày”, tuy nhiên tên truyện chỉ là “Chưng bính truyện” tức truyện
bánh Chưng mà thôi. Sở dĩ người xưa lấy cái tên truyện như vậy là vì bánh chưng
vuông, thể Âm mà dụng Dương tức Thái cực thuộc Dương hay người nam tức Lạc Việt.
Theo tôi, truyền thuyết này
cũng nằm trong giòng chảy của các truyền thuyết khác, ngoài việc ghi lại nếp sống
văn hóa của người Việt cổ, các câu chuyện chủ yếu nói về tác quyền đối với dịch
học và chữ vuông, dĩ nhiên khi nội dung với thông điệp như vậy thì nguyên liệu
hình thành câu chuyện cũng lấy từ dịch học và chữ vuông. Các nguyên liệu ấy như
sau:
Hà Đồ - Lạc Thư , 10 thiên can:
Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. 12 địa chi: Tý, Sửu, Dần,
Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, còn chữ vuông thì có chữ Hiếu孝, Cô孤, trong chữ 孤 có chữ Tý 子là tên chi đầu tiên trong 12 chi, chữ Giáp 甲, can đầu tiên ứng với chi Tý子.
2. Diễn tiến theo câu chuyện.
2.1. Hà Đồ.
Truyện viết rằng:
“Vua
Hùng sau khi phá xong giặc Ân rồi, trong nước thái bình, nên lo việc truyền
ngôi cho con”
Vua Hùng tượng trưng cho Hà Đồ, lo việc truyền ngôi cho con là Hà đồ biến
thành Lạc thư.
2.2. Lạc Thư .
“Mới hội
họp hai mươi hai vị quan lang công tử lại mà bảo rằng: “Đứa nào làm vừa lòng
ta, cuối năm đem trân cam mỹ vị đến dâng cúng Tiên Vương cho tròn đạo hiếu thì
ta sẽ truyền ngôi cho”.
Lạc Thư được sinh ra từ Hà Đồ cũng như con cái được sinh ra từ cha mẹ. Việc
truyền ngôi cho con có nghĩa là biến Hà Đồ thành Lạc Thư. Thời gian chỉ có
trong thế giới hiện tương hay lạc thư mà thôi, cụ thể ở đây là 22 vị quan lang,
tức 10 thiên can và 12 địa chi. Cuối năm có nghĩa là vào ngày Tết, theo câu
chuyện thì rõ ràng thời gian trong câu chuyện này được tính bằng lịch Kiến Tý,
tức lấy tháng Tý làm tháng đầu năm. Điều này hoàn toàn tương thích với câu “1
Chạp Giêng 2” mà từ lâu đã trở thành một câu nói như là một mật mã trong dân gian
nước Việt, ai cũng biết câu ấy nói lịch Kiến Tý nhưng không biết vì sao tiền
nhân nước Việt lại nói như vậy. Với câu “cho
tròn đạo Hiếu-以盡孝道” đạo hiếu là đạo của người Việt, đã là người Việt không ai không biết và nằm
lòng bài ca dao chữ Hiếu, chữ
Hiếu 孝là một con chữ thể hiện Lạc Thư, cụ thể là trên
Thổ 土- Âm, giữa vạch ngăn cách âm dương, dưới Tử- Tý子là con trai – Dương; đồng
thời chữ Thổ chỉ hướng nam, chữ Tý chỉ hướng bắc. Như vậy thông qua chữ Hiếu 孝vua Hùng chỉ cho ta biết rằng
thời gian cuối năm hay Tết là vào tháng Tý子.
3. Các anh em của Lang Liêu.
Các công tử đua nhau đi tìm các
vị trân kỳ trên đất dưới nước nhiều không biết bao nhiêu mà kể.
Truyện nói rằng 21 quan lang công tử ai cũng tìm mọi của ngon vật lạ, trên
đất cũng như dưới nước, ta hay gọi là sơn hào hải vị. Đây là
một cách mô tả sơ đồ vũ trụ, thông thường người xưa chia sơ đồ vũ trụ thành hai
phần, trên là núi – dương, dưới là biển – âm, khái niệm này đã giải thích nhiều
lần trong phần giải mã các truyền thuyết trước rồi. Như thế là câu chuyện lấy bối
cảnh vũ trụ dịch lý để xây dựng câu chuyện, 21 anh em kia có gia đình, gia nhân
đầy đủ nên thi nhau muốn lập công với những món đặc sản, duy chỉ có Lang Liêu郎僚 là
cô độc. Hai chữ 郎僚 nói cho ta biết rằng 21 người anh em kia là người phương nam cả, vì chữ
Lang 郎 có chữ Lương 良– Cấn艮, tức
sinh thực nam, chỉ người Cạc hay Lạc Việt. Do đó Ất乙, Cấn艮,
hay núi Trâu丑 cũng chỉ khái niệm này mà thôi, vì cả bả đều ở một
vị trí trên Lạc Thư, theo tứ tượng nó là Dương thịnh. Liêu 僚là bạn
cùng làm việc, ở đây là cùng dòng họ.
4. Chàng Lang Liêu cô
thân, cô thế 孤.
Truyện viết:
“Duy có công tử thứ mười tám tên
là Lang Liêu, mẹ hàn vi, bị bệnh qua đời đã lâu, trong nhà lại ít người nên khó
bề toan tính, ngày đêm lo lắng, ăn ngủ không yên”.
Công tử thứ 18, 18 là bát quái hoạt động trong Lạc thư – Hậu thiên Bát
quái, thuộc Dương, bát quái Lạc thư – Hậu thiên bát quái gồm 9 cung. 9 Dương, 9
cung âm thành 18, vì thế mới có trung cung, cung phi thì nam khôn nữ cấn. Mẹ Lang Liêu qua đời đã lâu. Mẹ tức là quái Khôn,
trong Hà Đồ, Khôn là nơi Khảm trú ngụ, giờ đây Hà Đồ đã sinh ra Lạc Thư thì
Khôn đã sang ở trục hữu -Âm, hướng tây nam nên nói đã chết, nhà của Khôn bây giờ
là Khảm, tượng trưng cho trung nam, tức Lang Liêu. Khảm trung mãn, chỉ một hào dương
ở giữa hay nói khác hơn là một mình đơn độc, ít người. Theo tôi có thể người
sau viết lại không quan tâm lắm con chữ nên nghĩ viết đủ nội dung là được, chứ
theo tôi, câu “Tả hữu quả thiểu -左右寡少” nên viết là “左右孤寡 – Tả
hữu cô quả” thì hay hơn, vì Quả có
nghĩa là Thiếu rồi. Thuyết văn giải tự: (寡)少也。單獨皆曰寡 – Quả . Thiếu giả. Đơn độc giai viết quả - Quả. Ít vậy, đơn độc đều gọi là quả. Vì vậy
mà tôi cho rằng cách diễn tả trong truyện là diễn tả chữ cô 孤; đồng thời
các khái niệm trong đoạn văn này cũng cho thấy điều đó, như tháng cuối năm - Tý子, chàng Lang Liêu (quái Khảm – Con trai giữa) cô
đơn (Hào dương giữa quái Khảm) các khái niệm này được thể hiện trong chữ Cô孤 - đơn chiếc.
Chữ 孤 gồm Tử 子 và chữ Qua瓜, về dịch lý thì Tử子- con trai – Lạc Thư - Dương, Qua瓜 trái dưa – Hà Đồ - Âm. Dương Âm tức
Càn Khôn hay bản thể của vũ trụ. Còn theo câu chuyện thì chữ Tử子chính là chi Tý, Chữ Qua 瓜 - trái dưa – tròn,
tượng trưng cho bản thể hay Hà Đồ vì nó tròn, như hình minh họa ở trên. Chữ 子Tý, chi đầu tiên trong 12 chi, nằm ở cung Khảm. Nhìn
vào hình minh họa ta thấy Tý – Khảm tượng trưng cho Lang Liêu, một hào dương cô
độc. Vì giờ Tý nằm giữa âm dương hay AM và PM, tức 12 giờ khuya nên truyện viết
“ngày đêm lo lắng”.

5. Hình thức và ý
nghĩa của bánh.
Chợt nằm mơ thấy thần nhân bảo
rằng: “Trong trời đất không có vật gì quý bằng gạo, lấy nó nuôi thân, thân thể
khỏe mạnh, ăn mãi không chán, không có vật gì hơn được. Nên giã gạo nếp làm
bánh, hoặc hình vuông, hoặc hình tròn, tượng trưng cho trời đất, ngoài bao bằng
lá, trong chôn nhân ngon, ngụ ý ơn nặng dưỡng dục của cha mẹ.
Nằm mơ thấy thần nhân là vì Lang Liêu tức là Tử hay Tý, Tý nằm chung với
Giáp tại hướng bắc, Giáp tượng là đầu người, nên nói thần nhân. Gạo tức là Mễ
hay Mẹ, tức là bản thể của vũ trụ, nơi sinh ra và nuôi nấng tất cả vạn hữu, vì
vậy mà chữ Mễ chính là hình ảnh của bát quái như hình minh họa, chứ có đâu hạt
gạo mà lại te tua như vậy, về vấn đề này xin xem truyện Mộc Tinh.
Dân tộc ta suốt mấy chục
ngàn năm đi tìm long mạch hay những con sông và bãi bồi cốt để trồng lúa, lúa
chính là sanh mạng của người Việt ngày ấy, công việc này quan trọng và lâu dài
đến nỗi nó trở thành một nền văn hóa gọi là văn hóa lúa nước, con chữ cũng
không ngoại lệ, các chữ Mộc木, Hòa禾, Miêu苖, đều được hình thành từ sơ đồ dịch học, ngay cả hai
cái tên Hà河và Lạc洛 đều viết với bộ thủy, người ta thường dựa vào truyền thuyết mà nói đó
là sông, kì thật nó mang đậm hình ảnh của người trồng lúa nước. Chữ Mễ 米 gạo, cũng không ngoại lệ. Hạt
gạo ngày ấy là kết tinh cả một lịch sử lâu dài, cùng với bao hy sinh mất mát của
nhiều thế hệ mới có được hết quả là một bát cơm, vì vậy mà người xưa mới có câu
ca dao “Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẽo thơm
một hạt đắng cay muôn phần”. Có thể nói trong hạt gạo có cả một dòng chảy lịch
sử của dân tộc; đồng thời nó là kết tinh của trời đất mà thành, cho nên dùng nó
để mà làm bánh thì quả đây là một chất liệu vô cùng ý nghĩa. Ý nghĩa không phải
là vì nó là gạo mà vì Lang Liêu nhận thức được trong hạt gạo có tổ tiên, có trời,
có đất. Nhờ thần nhân báo mộng, Lang Liêu mới làm ra hai loại bánh, một hình
vuông, tượng trưng cho đất, có tên là “chưng”, hai là tròn, tượng trưng cho trời,
có tên là “bạc trì”. Sao không phải là thần tiên mà là thần nhân, rõ ràng người
xưa đã gởi vào cách dùng từ rằng mọi việc từ con người, giấc mộng nhắc cho Lang
Liêu biết rằng Tổ tiên cũng cao quý như trời đất, làm người mà không nhớ ơn tổ
tiên thì không phải đạo hiếu hay đạo làm người. Vuông tròn là hai khái niệm phổ
biến nói về âm dương, làm hai cái bánh với ý nghĩa như vậy, rõ ràng đây là cái
bánh văn hóa cốt lõi chứ đâu phải bánh thường, ăn cái bánh này là ăn cái văn
hóa của người Việt, cái văn hóa mà người Việt cổ đã mất hàng chục ngàn năm
chiêm nghiệm con người và vũ trụ mà đúc kết thành.
Lang Liêu giật mình tỉnh dậy,
vui mừng nghĩ rằng “Thần giúp ta vậy”, rồi theo đó mà làm. Lang Liêu bèn lựa nếp
hạt trắng tinh, không sứt mẻ, đem vo cho sạch, rồi lấy lá xanh gói thành hình
vuông, bỏ nhân ngon vào giữa, đem nấu chín tượng trưng cho Đất, gọi là bánh
chưng. Lại lấy nếp nấu xôi đem quết cho nhuyễn, nhào thành hình tròn để tượng
trưng cho Trời, gọi là bánh Bạc Trì.
Theo lời thần nhân mách bảo, Lang Liêu làm hai loại bán đều bằng gạo nếp trắng,
một là bánh vuông, bên ngoài bao bằng lá xanh, hai là bánh tròn trắng, trắng vì
bánh này không gói gì cả, chỉ nếp thôi. Xanh tượng trưng cho hướng đông, trắng
tượng trưng cho hướng tây, cả hai thể hiện trục hoành, trong dịch học trục
hoành thể hiện thế giới hiện tượng, nơi có sống chết, xanh, hướng đông tương
trưng cho sự sống, trắng, hướng tây tượng trưng cho thế giới âm. Như vậy cái
bánh này chính là hai trục và bốn hướng của sơ đồ vũ trụ, cụ thể là tượng trưng
cho Trời – Nam, tượng trưng cho đất – Bắc, Xanh – Đông, trắng – Tây, tức là hai
trục tung hoành, đối với bánh thì ở giữa là nhưn ngon ngụ cho ơn dưỡng dục của
cha mẹ, còn đối với vũ trụ thì giữa chính là chữ Hiếu, như vậy hiếu đây là hiếu
với trời đất, cha mẹ.
6. Văn hóa cốt lõi.
Đến ngày quy định, các anh
em khác đem nhiều sơn hào hải vị, nhưng vua cha lại thích hai loại bánh của
Lang Liêu hơn, cho giải nhất rồi từ đó dùng để cúng tổ tiên mỗi khi tết đến,
cũng từ đó trở thành một loại hình văn hóa ẩm thực mang tính cội nguồn dân tộc.
Lang Liêu lên làm vua, các anh em khác chia nhau các phương mà trấn giữ. Về sau
ai cũng muốn làm thủ lĩnh nên lập trang, trại, phường riêng của mình. Vua Hùng
truyền ngôi lại cho con là Lang Liêu có nghĩa là vũ trụ chuyển sang Lạc thư,
theo quái là Khôn trên, Càn dưới. Ta biết Khôn xưa kia ở nơi cung Tý, cái chổ
mà Lang Liêu đang ở, tức chi Tý và quái Khảm, vì vậy mới nói truyền ngôi lại
cho Lang Liêu.
7. Về tên bánh: Chưng, giày.
Theo câu chuyện thì bánh
có tên là “chưng” và “bạc trì”, tuy nhiên dân gian vẫn gọi là bánh chưng và
bánh giày, tất nhiên điều này không phải là ngẫu nhiên mà nó có lý do của nó,
cũng như truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương mà dân gọi là thánh Gióng vậy, vì vậy ta xem
cái tên “giày” này như là một cái
tên chính thức khác bên cạnh tên “bạc
trì”. Có một điều lạ là trước giờ người ta bàn nhiều về chuyện bánh chưng,
bánh giày, nhưng chủ yếu tập trung vào cái tên “chưng” cụ thể là âm [chưng].
Như câu chuyện đã mô tả, hai loại bánh này là tượng trưng trời đất hay âm
dương, đã là âm dương thì không làm sao chia cắt ra được, có nghĩa là hai cái
tên ấy nhất định phải có sự liên quan mật thiết, nếu ta chỉ tập trung giải
thích một tên thôi, không khéo ta lại làm sai lệch ý nghĩa cái tên ấy khi so
sánh với tên kia. Ví dụ nếu cho âm chưng trong bánh chưng có nghĩa là chưng cất
như chữ 蒸mà câu chuyện đã dùng, vậy đâu là sự tương hợp cái tên
“bạc trì” hay ‘Giày – giầy”, nó có chỉ ra được tính đối lập như âm với dương
không. Với quan niệm như vậy xin trình bày cách hiểu khác của tôi.

7.1. Chưng.
A. Chữ
Chưng蒸.
Chữ Chưng 蒸[2] này, theo tôi nguyên thủy như
hình minh họa, rất có thể người ta đã sửa lại đôi chút cho nó không còn nguồn gốc
xưa để người Lạc Việt không thể nhận diện được, hoặc có thể do thuận bút khi viết
mà đã trở thành như thế, điều này rõ ràng người phương Bắc không có nhận thức về
Dịch học trong con chữ này.
Dưới bộ HỎA灬, Nhất一 Đáy nồi -
KIM金, Thủy = THỦY水, Bộ Thảo艹hay chữ Nhất一 - Nắp đậy - MỘC木, Bánh
chưng ở giữa nước =-THỔ土. Tất cả nói lên khái niệm ngũ hành.
B. Về
tên “Chưng”.
Đại Nam Quốc Âm Tự Vị (1895-96) tác giả Huỳnh Tịnh Của viết:
1- Bánh chưng: bánh gói bằng nếp
hình vuông, còn có tên là địa bính tức bánh tượng trưng cho đất vuông. Bánh được
chưng hấp nên gọi là bánh chưng.
2- Bánh chưn: bánh vuông dẹp giống
cái bàn chưn, cũng gọi là địa bính.
- Từ điển Hán Việt của Đào Duy
Anh là “đun, nấu cách thủy”.
- Vương Lực cổ Hán ngữ tự điển (Trung Hoa thư cục, Bắc
Kinh, 2002) đã ghi cho chữ chưng 烝 một trong các nghĩa là “dụng hoả hồng khảo” 用火烘烤, nghĩa là dùng lửa mà nung.
Như thế nghĩa chữ Chưng trong bánh chưng không thích hợp
với các nghĩa như đã nêu, trừ nghĩa 2, nhưng không phải với giải thích ấy. Thông
thường người ta hiểu chưng có nghĩa là làm chín bằng hơi nước, nhưng trong Lĩnh
Nam Trích Quái viết “煮而熟之- Chử nhi
thục chi” có nghĩa là nấu (Chử) chứ không phải chưng. Đồng thời trên thực tế ai
cũng biết là luộc hay nấu bánh, chứ chưa hề có chuyện chưng bánh chưng, ngay cả
người viết Lĩnh Nam Trích Quái cũng hiểu thế nên mới viết là nấu. Nếu không phải
nghĩa là chưng cất, thì từ chưng này có nghĩa là gì? Có liên quan gì đến đất -
Âm?
Theo tôi từ Chưng này có nghĩa là cái Chưn, chữ ngày xưa
là 申(cái chân) ngày nay đọc là Thân, [th] và [ch] đôi khi
dùng thay nhau, như trái Thanh – Chanh, Bát Thánh Đạo, Chù thiền – Chùa chiền.
Ta thường nói “Đầu đội trời chân đạp đất” vì cái bánh tên là chưng, hình vuông
tượng trưng cho đất, thì nhất định khi đặt tên cho cái bánh ấy cũng phải có nét
nghĩa liên quan đến đất. Cần thấy là triết lý âm dương ban đầu con người nghiệm
từ bản thân mà ra, sau đó mới tìm thấy tính phổ quát của nó trong vũ trụ, cho
nên tín ngưỡng phồn thực là tôn giáo đầu tiên của con người. Chính vì chưng có
nghĩa là chưn - Vuông - Âm nên các từ theo nó như giày, tày, tét phải là biểu
tượng cho dương; đồng thời phải tròn.
C. Dây
buộc bánh chưng.
Khi gói, để bánh khỏi bị bể khi nấu, người ta có thể buộc
nhiều dây, nhưng khi đem cúng, người xưa chỉ để có 4 dây mà thôi. Bốn dây này
làm thành cửu cung như hình minh họa; đồng thời còn vẽ ra trên ấy một con chữ
có từ ngàn xưa mà hầu như ít ai quan tâm, chỉ có những người làm ra nó, tức mới
biết sự liên quan giữa cái bánh và con chữ chỉ nguồn gốc dịch học, mà cũng là
nguồn gốc chữ vuông của người Việt mà thôi. Đó là chữ Tỉnh井, nghĩa là cái giếng. Chữ Tỉnh 井tượng trưng cho Lạc thư – Hậu thiên Bát quái, tức
Thái cực, người Việt là người Nam thuộc Thái cực – Dương. Chính vì vậy mà tiền
nhân nước Việt đã viết truyền thuyết Việt Tỉnh Cương, thường dịch là Giếng Việt.
Lạc Thư được sinh ra từ Hà Đồ, vì vậy ta thấy trong chữ Đồ có chữ Tỉnh, như
hình minh họa.
7-2. - Nghĩa từ GIÀY (Giầy – dày). Bạc trì bỉnh.
Như Lĩnh NamTrích Quái mô tả “Lại lấy nếp nấu xôi đem giã cho nhuyễn, nhào thành hình tròn để tượng
trưng cho trời, gọi là bánh bạc trì”.[3]
Như vậy để làm được bánh giày ta phải qua công đoạn giã, mà giã thì phải dùng
chày - Dương, tất nhiên là phải để xôi trong cối - Âm. Hình ảnh và khái niệm
chày cối là tượng trưng cho âm dương được ghi lại trên trống đồng. Sau khi làm
thành chiếc bánh rồi, người ta cần một cái tên cho nó, vậy phải đặt tên như thế
nào. Tất nhiên cái tên ấy phải nói lên được việc làm của họ; đồng thời phải có tính
Dương, và dĩ nhiên không thoát khỏi khái niệm phồn thực trong hình thể, cụ thể
là cái chày họ đang sử dụng. Từ suy nghĩ đó, họ cần có một cái tên mà nội hàm
cái tên ấy phải liên quan đến khái niệm chày, không gì hơn là gộp cả hai việc
Giã và Chày lại thành một âm để đặt tên cho cái bánh, chữ Giày ra đời theo cách
đọc phản Giã – Chày thành Giày Chã (Có lẽ từ Chã cũng từ đây mà có). Đây là cách mà người xưa đã sử dụng để tạo
ra từ mới, nhưng vẫn mang được nét nghĩa của thành phần mà nó tạo ra. Từ “nón”
là một ví dụ khác, từ này chỉ vật đội trên đầu che mưa nắng, nhưng tại sao lại
gọi là cái nón ? Theo tôi, vì hình dáng của cái nón giống như ngọn núi,
hay ta gọi là hình núi, ta hay nói là “núi
non”, đọc phản thành “nón nui”,
từ đó ta có từ “nón”, với hình dáng
là ngọn núi. Như vậy từ Giày có liên
quan đến quá trình chế biến cái bánh tượng trưng cho Trời, chính vì vậy từ Giày
cũng mang nét nghĩa của sự giày xéo, chà đạp, làm cho nát và có tính Dương,
Giày – Chày. Về sau khi người ta làm ra cái bọc lấy bàn chân (chưn) người ta đã
sử dụng từ Giày như là một danh từ để gọi, từ đó mới có từ giày, như trong “đôi
giày”. Nguyên nhân theo tôi, vì nó thể hiện tính khắng khít của âm dương, Giày
thì phải ôm lấy chân chứ, như âm với dương vậy.
Trong quá trình sinh hoạt, từ hai loại bánh với hai cái
tên như ta đã biết, theo vùng miền, nó còn có các tên khác, mặc dù cũng chỉ để
chỉ hai khái niệm âm dương mà thôi, như
Chưng - Tày, Chưng - Tét, Tày - Ú.
7.4. Nghĩa từ TÀY.
Ngoài tên bánh Chưng – bánh Giày còn có bánh Chưng – bánh
Tày. Vậy chữ Tày nghĩa là gì mà đi liền với từ Chưng? Ở vùng Phú Thọ và một vài
vùng ven Hà Nội, hiện nay vẫn còn gói bánh này, gọi là bánh chưng tày hay bánh
tày, còn có tên khác là bánh đòn, giống với bánh tét miền trung và miền nam. Vậy
Tày nghĩa là gì? Theo tôi từ Tày là một từ phái sinh từ Tay (cánh tay). Vì từ
chưng trong bánh chưng có nghĩa là chưn, thì việc nó đi liền với tay là chuyện
bình thường, chỉ sự liên kết chặt chẽ, như “Anh em như thể tay chưn”, cũng như
âm luôn luôn đi liền với dương vậy. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng nó bị trầm
hóa, từ tay thành tày, cũng có thể do ảnh hưởng bởi từ giày trước đó. Chuyện
này rất phổ biến đối với người Việt khi đọc các âm cuối không dấu, như Uber = U
bờ, Viber = Vai bờ, Toyota = Tô dô đà. Ngoài ra, sở dĩ tôi cho [tày] là [tay] vì
câu chuyện bánh chưng, bánh giày mang ý nghĩa âm dương, dịch lý. Như ta biết
căn bản của dịch lý là Thái cực (lý số = 10) sinh nhị nghi – tứ tượng – Bát
quái – 64 quẻ (6+4=10). Ta có thể liên tưởng 10 ngón chân và 10 ngón tay. Tay
chân là một cặp đối đãi như trên dưới, trong ngoài, phải trái, âm dương.
7.5. Nghĩa từ TÉT.
Bên cạnh các cặp từ Chưng – Giày, Chưng – Tày ta còn có cặp
từ khác đó là Chưng – Tét. Vậy từ Tét trong trường hợp này nghĩa là gì?
Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của ghi:
“Tét: Tước ra, xé ra, tách ra”; rồi “Tét bánh: Dụng dây
nhợ mà siết đòn bánh ra từ lát, từ khoanh”.
Bánh tét là bánh có hình tròn dài như bánh Tày và có vai
trò như từ Giày – Tày, do đó nó cũng có nghĩa là dương – trời, đối lại với
chưng, có hình vuông biểu tượng cho âm – đất. Ta có các từ liên quan như Tước –
Tách - toát - toét đều chỉ việc dùng một cái gì đó làm cho một vật khác bể ra
thành hai hay nhiều phần. Định nghĩa và ví dụ trên là chính xác, nhưng người đọc
dễ bị định hướng do cách hiểu từ tét phải là dùng sợi dây, vì vậy khó mà tìm ra
ý nghĩa của nó trong trường hợp này – Bánh tét. Nếu vì bánh bị tét bởi sợi dây
mà đặt tên là tét thì nó có liên quan gì đến từ chưng, mà như ta biết, chưng tượng
cho đất -âm, giày, tày, tét tượng trưng cho trời-dương, có nghĩa là cặp từ này
phải có mối liên quan chặt chẽ như âm với dương. Theo tôi nghĩa của từ này đơn
giản đã nằm trong tên bánh - Bánh tét, có nghĩa là cái bánh dùng để tét, ở đây
là tét cái bánh chưng, như vậy người ta đã căn cứ vào chức năng của cái bánh mà
đặt tên. Điều này không phải cá biệt, như cây viết, sở dĩ nó được gọi với cái
tên viết vì nó dùng để viết, lí ra phải gọi là bút mới chính xác. Như đã nói
trên, thuyết âm dương, phồn thực ban đầu xuất phát từ sự chiêm nghiệm bản thân,
về sau mới thăng hoa thành triết thuyết, nhưng cho dù có phát triển như thế nào
thì khái niệm ban đầu vẫn là khái niệm căn bản.
Từ Tét này chỉ có ở miền trung và miền nam, có thể sau
khi sử dụng Tét thay Tày, người ta lại sáng tạo nên một cặp từ khác đó là bánh
Tày - Ú. Bánh Tày miền trung nhỏ chỉ độ bằng gang tay, thường thì hai cái úp
vào nhau, có hình hơi tròn, còn bánh Ú thì giống hình cái vú, có lẽ ú là cách
nói trại tù vú mà ra, tượng trưng cho âm. Tày - Dương, Ú - Âm. Tày ú là phái âm
của Tay Vú, tức Dương Âm. Ta có thể hình dung ra đều đó trên cơ thể con người, tay
thì luôn chuyện động - Dương, Vú thì không chuyển động, nhưng có thể nuôi con -
Âm. Bánh ú này có hình dáng giống như bánh chưng Triệu Khánh – Quảng Đông –
Trung quốc.
II. THÔNG ĐIỆP CỦA NGƯỜI XƯA.
1. Thời điểm tuế chung tức cuối năm hay Tết vào lúc nào?
Đã từ lâu, thời
điểm cuối năm âm lịch của nước ta là lúc giao thừa, tức là 12 giờ đêm hay giờ
Tý ngày 30 tháng 12 âm theo lịch Kiến Dần; đồng thời ta gọi thời gian này là tết.
Tuy nhiên truyền thuyết “Chung bính truyện” này cho ta biết ngày xưa dân ta ăn
tết vào tháng 1 tức tháng Tý, để tìm hiểu điều này ta hãy tìm hiểu từ Tết, vì
sao mà gọi thời khắc giao thừa giữa năm củ và năm mới là Tết.
Ngày nay ta có
thể tìm thấy cách trả lời rằng Tết là phái âm của Tiết, là từ gốc Hán hay là từ
Hán Việt, cách trả lời này chẳng phải đến từ những người không biết gì về chữ
Nho, mà nó được những người có chữ nghĩa ở nước Việt khẳng định trên sách vở,
đài báo trong và ngoài nước, vì nhiều người nói giống nhau nên xin không dẫn
nguồn ra đây, ai muốn biết thì dễ dàng tìm thấy nội dung đó trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Để chứng minh rằng từ Tết là một từ thuần Việt và có chữ hẳn
hoi chứ chẳng có ai sang đây dạy dân ta cả, trước hết ta hãy xem Tết trong
“Chưng bính truyện” diễn ra khi nào?
Ta biết rằng
cách tính thời gian theo âm lịch về địa chi thì bắt đầu là Tý rồi tới Sửu.v.v…Còn
đối với thiên can thì bắt đầu từ Giáp rồi Ất.v.v…Trong vòng tròn thì bắt đầu ở
đâu sẽ kết thúc ở đó. Trong truyện vua Hùng nói “tuế chung – cuối năm” như vậy
cuối năm ở đây là tại cung Tý và Giáp, điều này phù hợp tháng 1 theo lịch Kiến
Tý, vì 1 là số bắt đầu của 10 số (bản thể). Tóm lại Tý, Giáp, 1 đều là điểm bắt
đầu của năm theo lịch Kiến Tý; đồng thời đây cũng chính là điểm phân chia sơ đồ
vũ trụ ra làm hai. Một nửa âm, nữa còn lại
dương hay ta có thể nói cực âm sinh dương, vì vậy mà nói Nguyên Đán. (Xem hình
minh họa bên dưới).
Như đã đề nghị
trên, từ Tét trong bánh tét là cái bánh dùng để tét, ở đây là nó tét cái bánh
chưng. Bánh chưng hình vuông, bánh tét tròn dài, đây chính là hình ảnh của chữ
Giáp 甲, chữ Giáp 甲 gồm Điền 田 – Vuông - Bánh chưng – Đất - Âm, Cổn - 丨(nghĩa là trên dưới thông nhau) – Bánh tét – Dương. Tét là
làm cho một vật bể hai, ở đây Tý, Giáp, 1 chính là điểm chia vũ trụ làm hai,
hay ta có thể nói đó là điểm Tét, vì vậy mà ta gọi cái bánh tròn dài là bánh
tét, vì nó là trục Tung của vũ trụ hay chữ Cổn丨với nghĩa cho trên. Ta có thể minh họa như sau.

Với những gì
phân tích trên ta có thể khẳng định Tết là một cách gọi khác của Tét, chính vì
vậy ngày nay ta vẫn còn tồn lưu những cách nói về tết như sau: Cười tý toét, toét là cách gọi khác của
tét, tết mà không cười sao được, giáp
tết. Tết thì ở cung Giáp, vì Giáp và Tý là điểm khởi đầu thì cũng là điểm tuế
chung. Tết nhất, nhất là một,
tết thì ở tháng 1. Tết Cả, người ta cho rằng Cả là âm xưa của
Giáp. Thuyết văn giải tự cho Cổ hạp thiết古狎切= Cạp.

2. Về ngữ âm Tết và Tiết.
Như đã nói
trên, Tiết chỉ là phái âm của Tết, cụ thể thuyết văn giải tự cho âm chữ節 như sau:
節. 竹約也。从竹即聲。子結切.
Tết. Trúc ước dã, Tùng trúc tức thanh. Tử kết thiết.
Trúc ước vậy. Bộ trúc âm
tức. Đọc là.. Tử kết – Tết.
Rõ ràng Thuyết văn giải tự cho âm Tết chứ không phải tiết
竹約也。約、纏束也。竹節如纏束之狀。吳都賦曰。苞筍抽節。引伸爲節省、節制、節義字。又假借爲符卪字。从竹。卽聲。子結切。十二部。
Trúc ước dã. Ước, phược thúc dã. Trúc tiết như phược thúc chi trạng
Ngô Đô phú viết. Bao duẩn
trừu tiết. Dẫn thân vi tiết tỉnh, tiết chế, tiết nghĩa tự. Hựu giả tá vi phù tiết
tự. Tùng trúc, tức thanh. Tử kết thiết.
Trúc ước vậy. Ước là trói buộc vậy. Trúc tiết giống như bị trói buộc.
Ngô Đô phú viết. Mụt măng mới nhú. Từ đó có các từ tiết tỉnh, tiết chế, tiết
nghĩa, còn muộc để gọi là phù tiết. Bộ trúc, âm tức, đọc là Tết.
Một lần nữa tôi đặt ra câu hỏi ở đây là ai viết cuốn Thuyết
văn giải tự này, người Việt hay Hán. Với những gì trích trên ta có thể nói tiền
nhân nước Việt đã viết cuốn tự điển này, nếu không cái âm Tết của người Việt ở
đâu mà được ghi lại trong tự điển này chính xác đến vậy, thế mà người ta cứ giải
thích mãi tết là đọc trại của Tiết, một từ Hán Việt. Không những thế phương bắc
đã bịa đặt ra cái đốt tre, xin giải thích như sau.
3. Trung Hoa học lại, hiểu sai.
Ở đây xin bàn về nghĩa của chữ節, trong các tự điển phổ thông đều cho một trong nét
nghĩa của chữ 節 là đốt hay đoạn, tuy nhiên với những giải thích
của Thuyết văn giải tự, ta thấy chẳng có chổ nào nói 節là đốt hay đoạn cả, chỉ nói trúc tiết tình trạng
như bị trói buộc vậy -竹節如纏束之狀, nhưng trước đó lại giải
thích 節 là Trúc ước. Ước, phược thúc dã
-竹約也。約、纏束也.
Theo tôi Trúc ước 竹約
có nghĩa là một cuộn gồm nhiều thanh tre bó lại, đây chính là cuốn sách bằng
tre ngày xưa, ngày nay ta vẫn thường thấy trên phim Tàu đấy thôi, từ đó mới có
nghĩa là Phược thúc 纏束Trói
buộc. Như vậy 竹約
có nghĩa là cuốn sách bằng các thẻ tre ghi lại sự đổi thay của trời đất trong mỗi
tiết người ta cuộn lại thành một bó, cái mà về sau thành Nông lịch, ở đây là sự
thay đổi của thời tiết theo từng chu kì, cụ thể là tám tiết. Như vậy chữ Trúc 竹 ở
đây không phải là cây tre mà là loại văn bản xuất phát từ thời nhà Chu. Ước約
là những giới hạn hay những điều khoảng đã giới hạn trong văn bản đó, như ngày
nay ta có hiệp ước, minh ước. Như vậy Trúc ước là một văn bản ghi lại những mốc
thay đổi của thời tiết trong một giai đoạn cụ thể chứ chẳng có đốt tre nào ở
đây cả, người phương bắc sau khi tiếp nhận lịch của phương nam rồi không biết
nên tưởng tượng ra cái đốt tre, từ đó các sách vở mới có nghĩa và các chữ mang
nét nghĩa đó. Vì節
có âm là Tết, có nghĩa là bó lại cho nên ngoài cái nghĩa ngày Tết, người Việt
còn dùng với nghĩa bó lại như trong “tết tóc”.
4. Dân tộc ta sử dụng lịch
Kiến Tý vào lúc nào, lịch ấy lấy gì làm cơ sở và viết bằng loại chữ gì?
Trả lời được
câu hỏi này có nghĩa là ta phủ nhận tất cả những gì gọi là chữ Hán, văn hóa Hán
trong đó có lịch Kiến Dần mà hầu hết người có học ở nước ta khẳng định chắc nịch
rằng nó là văn hóa người Hán đem đến dạy cho ta. Có một điều mà tôi cứ băn
khoăn mãi không biết trả lời sao, đó là từ lâu ở nước ta có câu thành ngữ “Một,
chạp, giêng, hai” hay “1,chạp, giêng, 2” ngày nay có thể một số người không biết
nhưng vài mươi năm trước hầu như những người có chữ, nhất là liên quan đến văn
chương, lịch sử nhất định biết câu này, thậm chí ngày nay ta vẫn tìm thấy trên liên lưới rằng đó là câu nói tóm tắt
lịch Kiến Tý, thế mà chưa một tài liệu nào nghiên cứu tại sao tiền nhân nước Việt
lại nói như vậy. Có thể có ai đó cũng đã nỗ lực nhưng đành bỏ cuộc vì không có
gì để nối kết với câu thành ngữ nói trên, mà cũng có thể là sau nhiều năm bị
tuyên truyền của phương bắc, sức đề kháng của dân ta bị tê liệt, cho dù có nói
ra thì bị ngay chính lực lượng có học trong nước cho là điên, làm gì có Lịch Việt,
chữ Việt, Tết hả, là từ phái âm của Tiết 節, một từ Hán Việt, điều này hết sức phố biến, ai quan tâm thì lên liên
lưới thấy liền, cho nên đành buông xuôi thôi.
May sao, ngoài
câu thành ngữ “1, Chạp, Giêng, 2” tiền nhân còn viết thêm câu chuyện này, Chưng
bính truyện là một bằng chứng cho thấy câu thành ngữ “1, Chạp, Giêng, 2” có cơ
sở, điều này tôi đã chứng minh ở trên. Khi đã khẳng định rằng trước khi sử dụng
lịch Kiến Dần, dân tộc ta đã dùng lịch Kiến Tý thì tiếp theo sẽ có những vấn đề
cần được giải quyết như đã nêu trên.
A. Dân tộc ta dùng lịch Kiến Tý khi nào?
Ta biết rằng
nhà Chu cũng dùng Lịch Kiến Tý, vậy có lẽ lịch Kiến Tý của ta cũng không khác
gì lịch Kiến Tý nhà Chu, hay nói khác hơn có thể dân tộc ta đã dùng lịch Kiến
Tý song hành với nhà Chu, điều ấy có nghĩa là dân tộc ta đã dùng lịch Kiến Tý
trước khi nhà Hán được Lưu Bang lập nên và đổi lịch thành Kiến Dần mấy trăm
năm. Điều này cho thấy chuyện Sĩ Nhiếp mở nền Hán học ở nước ta là một ngụy sử.
B. Lịch Kiến Tý dựa trên cơ sở nào?
Với những gì
phân tích câu chuyện trên ta có thể khẳng định lịch Kiến Tý căn cứ vào hệ thống
dịch học. Như vậy trước khi nhà Hán xâm lăng nước ta, người Việt đã nằm lòng hệ
thống dịch học rồi. Vậy ai dạy người Việt Dịch học, người Hán chăng!? Thật là
chuyện đổi trắng thay đen.
C. Lịch Kiến Tý viết bằng chữ gì?
Tất nhiên lịch
Kiến Tý được viết bằng chữ Khoa đẩu hay chữ Vuông, loại chữ mà ngày nay gọi là
chữ Hán. Vì lịch Kiến Tý có trước lịch Kiến Dần rất lâu nên làm gì có cái gọi
là từ Hán Việt, phải gọi là từ Việt Hán mới phải, từ Tết là một ví dụ.
4. Tại sao gọi là Tết Nguyên
đán?
Ngoài các nghĩa đã nêu trên, tết trong âm lịch còn gọi là Tết Nguyên đán節元旦. Nguyên" 元 có nghĩa là bắt đầu hay thứ nhất, đán 旦 - Sớm, lúc trời mới sáng gọi là Đán. Với
hai từ Nguyên đán 元旦 theo tôi có nghĩa
là cái dương khí đầu tiên của một ngày, một tháng, một năm. Căn cứ vào sơ đồ vũ
trụ, nó chính là thời điểm cuối cùng của tháng 1, tức tháng Tý hay giờ Tý theo tiến trình của tứ tượng, đây
là thời điểm dương thịnh, âm suy, tất nhiên âm mới suy thôi và dương cũng mới bắt
đầu thịnh, vì vậy nó được thể hiện bằng quái Cấn
, một hào dương xuất hiện
trên đầu, hai hào âm bên dưới, đây mới là nghĩa của chữ Đán 旦. Như đã nói trên, Tết có tám tết tương ứng
với tám quái theo Lạc thư, Giáp Tết là tết đầu tiên, cũng có nghĩa là quái Cấn,
quái đầu tiên khi dương thịnh, điều này đã được người Việt xưa nhắc nhở rồi, cụ
thể là cái tên Lang Liêu 郎僚và Tết 節.
Trong chữ Lang 郎và chữ Tết節đều
có chữ Cấn艮. Như vậy Tết
Nguyên Đán chính là Tết của người Việt theo lịch Kiến Tý mà tôi đã phân tích ở
trên.
III. Kết luận.
Bánh chưng, bánh giầy là hai sản phẩm mang tính quốc hồn,
quốc túy, ngày nay tuy ta có nhiều sản phẩm ngon hơn nhưng mỗi khi tết đến xuân
về, đã là người Việt thì không thể quên hai loại bánh này được, người ta không
quên là vì nó đã trở thành một sản phẩm văn hóa, chủ yếu là để thể hiện tính
dân tộc, còn chuyện ăn chỉ là phần phụ mà thôi. Sở dĩ có được tinh thần đó là
nhờ vào sự quyền biến của người xưa biến hai sản phẩm tầm thường đó thành hai sản
phẩm mang tính tinh thần, tuy nhiên, theo năm tháng, bên cạnh việc tuyên truyền
chống phá của ngoại bang, một số người Việt lại đặt vấn đề, rồi tìm tòi nghiên
cứu nhưng với khuynh hướng càng ngày càng bắc hóa nguồn gốc bánh chưng. Sở dĩ
tôi chỉ đề cập tới bánh chưng vì hầu hết các bài nghiên cứu chỉ tập trung vào từ
“chưng”, bàn riết rồi quên mất “chưng phải đi với giày” hay “âm phải đi với
dương” kết quả là người ta đi quá xa so với truyền thuyết. Như đã nói trên, hầu
như đa số người nghiên cứu câu chuyện này có ý nghĩ rằng “chưng’” là chữ Hán cho
nên đi với “giày” là khiên cưỡng nên chi họ không để tâm để nghiên cứu, chỉ tập
trung vào từ “chưng” mà thôi, mà “chưng” là chữ Hán thì chắc câu chuyện này người
Việt xưa cũng học đâu đó của Tàu rồi viết lại với cái tên vua Hùng cho ra Việt
mà thôi. Thực ra đâu phải “chưng – giày” là trường hợp duy nhất đâu, ta còn có
“quê hương” cũng như vậy, trong từ ghép này Hương là từ gốc Hán còn Quê là thuần
Việt chăng, không đâu, cả hai từ Quê và Hương đều là thuần Việt cả đấy thôi. Do
quan niệm như vậy mà cho đến nay tên hai cái bánh quốc hồn quốc túy này vẫn
chưa giải quyết xong, nếu không nói là trong thầm lặng, phần đa xem đó chỉ là
văn hóa của Tàu, điều này có ảnh hưởng nhất định đối với đời sống văn hóa của
dân tộc, nhất là đối với thế hệ trẻ ngày nay, giữa khi những tâm hồn non trẻ bị
ồ ạt tấn công bởi các giá trị bên ngoài thông qua nhiều kênh thông tin, trong
khi các bài nghiên cứu xem ra làm cho tinh thần của truyền thuyết càng ngày xa
lạ. Mà cũng có thể người ta tìm thấy từ “chưng” trong truyện, còn “giày” chỉ là
tên gọi trong dân gian mà thôi chứ trong truyện gọi là “bạc trì bỉnh”, chắc vì chẳng
hiểu vì sao gọi cái bánh ấy là “bạc trì” nên cứ quên quách đi cho khỏe, còn
“giày” chắc là do giới bình dân nước Việt, ít chữ nói thêm vào nên cũng chẳng
quan tâm làm gì. Theo tôi, từ “giày” mới là cái tên chính của cái bánh hình
tròn trắng, vì trước khi ghi thành truyền thuyết thì câu chuyện ấy đã truyền
nhiều đời trong dân gian rồi, nó cũng như “Thánh Gióng” vậy, vì vậy bỏ “giày”
đi “chưng” thì thế nào cũng khập khiểng. Ngày nay người ta thường cho là bánh
trái thì phải có tên thanh tao, chứ cái bánh mà lấy cái “chưn” rồi đôi “giày”
mà đặt tên e là vô lễ khi đem dâng cúng cho tổ tiên, nghĩ như vậy cũng không phải
là không có lý, tuy nhiên từ “giày” trước đây có phải là đôi giày đâu, nhưng về
sau người ta lại lấy cái tên ấy đặt cho cái ôm lấy cái “chưn” cho nên kể ra cái
bánh với tên ấy mà đem cúng tổ tiên thì cũng bất kính thực, vì vậy mà về sau
người ta mới sáng tác ra từ “Tày – Tay”, rồi lại tiếp tục sáng tạo ra cái mới
khác nữa như Chưng – Tày, Chưng – Tét, rồi Ú – Tày, nhưng cho dù gọi gì chăng nữa
thì cặp từ này phải phản ảnh hai khái niệm âm dương. Tóm lại dù tên gọi và hình
dáng khác nhau nhưng rõ ràng ý nghĩa của nó thống nhất, đó là nói lên triết lý
âm dương, nó không chỉ được biểu thị qua việc làm bánh để tưởng nhớ tổ tiên, mà
qua đó khẳng định rằng, triết lý này, Dịch học, là sản phẩm của người Việt.
Ngay cả các tên bánh Chưng – Giày - Tày – Tét đều là Nôm cả, đồng thời đều liên
quan chặt chẽ đến tính phồn thực. Do tính tàn khốc của lịch sử, người Việt
không thể nói ra điều đó trực tiếp được, nên họ tìm mọi cách để ghi lại nguồn gốc
của triết thuyết đó thông qua các hình thức văn hóa vật thể và phi vật thể của
dân tộc mình, như trống đồng, ông Táo, Cóc kiện Trời, Sơn Tinh - Thủy Tinh
v.v.. Truyện bánh Chưng và bánh Giày không ngoài mục đích ấy.
Đặc biệt Chưng
bính truyện này cho ta biết rằng ngày xưa dân tộc ta ăn tết vào tháng 1 hay
tháng Tý, điều này hoàn toàn phủ hợp với câu “1, Chạp, Giêng, 2” mà ông cha ta
đã để lại hàng ngàn năm qua, một thành ngữ tóm tắt lịch Kiến Tý, loại lịch mà
nước ta đã sử dụng mấy trăm năm trước khi có nhà Hán. Chứng minh được điều này
có nghĩa là ta phủ nhận cái gọi lại chữ Hán, văn hóa Hán, ngược lại dịch học ấy,
chữ vuông ấy là của dân tộc ta, do tổ tiên nước Việt trải qua hàng ngàn năm
chiêm nghiệm tự thân và nhiên giới đúc kết nên, bởi vì lịch Kiến Tý được viết
ra căn cứ vào dịch học và bằng chữ
vuông.
Đây là thời khắc cuối năm hay tuế chung của năm
Đinh Dậu, xin đưa bài này lên liên lưới, kính mong các quý vị quan tâm hãy phản
biện, nếu cho rằng những gì tôi viết là bịa đặt, nhận vơ thì xin cứ tiếp tục dạy
con trẻ rằng xưa kia dân ta chẳng biết gì, tất cả văn hóa của ta có được là nhờ
phương bắc, cụ thể là nhà Hán sang dạy ta cả, còn nếu thấy những gì tôi viết là
có cơ sở thì vui lòng thôi đừng gián tiếp tuyên truyền mãi cho Tàu rằng trước
đây người Hán sang nước ta, dạy cho ta chữ viết, biết lễ nghĩa kể cả làm ruộng,
nói như vậy chỉ làm phiền lòng tổ tiên nước Việt mà thôi./.
[2] Chữ chưng này蒸,烝 dưới bộ hỏa, trên chữ chưng. Theo tôi có thể ban
đầu có thể là như thế này: Dưới bộ hỏa – chữ nhất – chữ thủy – chữ nhất (Lẽ nào
nấu mà không có nước).Tuy nhiên có thể trong quá trình viết nó đã biến thành chữ
như trên. Lý do là viết như thế có thể là cho thuận bút.
[3] Theo tôi, có thể hai âm “bạc trì” này vốn là “bạch trĩ” một tên gọi chỉ
vô cực hay trời.